GỢI Ý TRẢ LỜI CÂU HỎI CUỘC THI
Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh năm Ất Dậu (1765), niên hiệu Cảnh Hưng triều vua Lê Hiển Tông. Nơi sinh là phường Bích Câu, thành Thăng Long (Hà Nội). Lúc bấy giờ, cha là Nguyễn Nghiễm đang làm tể tướng. Bốn năm trước, người anh cùng mẹ Nguyễn Nễ cũng sinh tại đây. Mẹ đẻ của Nguyễn Du là Trần Thị Tần vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm. Bà là con gái thứ ba của một vị quan nhỏ coi việc sổ sách kế toán (chức Câu Kê) dưới trướng Nguyễn Nghiễm, người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Hương Mặc, huyện Từ Sơn). Bà Trần Thị Tần sinh năm Canh Thân (1740) và mất ngày mùng 6 tháng 7 năm Mậu Tuất (1778) thọ 39 tuổi. Năm đó Nguyễn Du mới 13 tuổi. Bà Trần Thị Tần thuộc dòng dõi Trần Phi Chiêu (1549 – 1623), ông đậu tiến sỹ năm Kỷ Sửu (1589) làm quan đến chức thượng thư bộ Hộ, kiêm Đô Ngự Sử, tước Diên Quận công. Bà là một phụ nữ nết na, thông minh, và xinh đẹp, lại sinh ra tại xứ Kinh Bắc vùng quê quan họ. Điều đó ảnh hưởng tốt đến hồn thơ Nguyễn Du từ những ngày còn bé.
Theo tộc gia phả của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, lên 3 tuổi, Nguyễn Du được tập ấm là Hoàng Tín Đại phu, xuất thân là Thành Môn Vệ Úy, tước Thu Nhạc bá. Với cái hàm ấy, Nguyễn Du đã đứng trong hàng sĩ tịch của triều đình nhà Lê, mặc dù chưa phải là một vị quan tại chức. Nguyễn Du tướng mạo khôi ngô. Lên 6 tuổi bắt đầu đi học chữ Hán, sách vở chỉ cần xem qua một lần là nhớ. Có lần Viện Quận công Hoàng Ngũ Phúc đến dinh thự nhà Nguyễn Nghiễm ở phường Bích Câu chơi. Trông thấy Nguyễn Du có tướng mạo phi thường, lấy làm quý mến bèn tặng ông một thanh Bảo Kiếm.
Năm Tân Mão (1771), Nguyễn Nghiễm thôi chức tể tướng, về trí sĩ ở quê nhà, Nguyễn Du theo cha về quê. Tại bến Giang Đình, ông được chứng kiến cảnh vinh hoa của gia đình mình (sau này ông có nhắc lại trong bài thơ Giang Đình hữu cảm). Năm Bính Thân (1776) Nguyễn Nghiễm mất, lúc đó Nguyễn Du mới lên 11 tuổi. Trong hơn 10 năm ấy, Nguyễn Du sống bên cạnh cha không nhiều. Năm 1778, bà Trần Thị Tần lâm bệnh rồi mất. Nguyễn Du mồ côi cha mẹ.
Nguyễn Nghiễm có 8 bà vợ, ngoài hai bà ở quê là Đặng Thị Dương (mẹ đẻ Nguyễn Khản) và Đặng Thị Tuyết (mẹ đẻ Nguyễn Điều). Các bà còn lại đều quê ở ngoài Bắc. Bà Trần Thị Tần ít hơn Nguyễn Nghiễm 32 tuổi, các bà khác còn trẻ hơn.
Cha mẹ mất, Nguyễn Du về sống với gia đình quan tể tướng tại Tiên Điền. Thủa ấy, dinh cư nhà Nguyễn Nghiễm rất nguy nga, đồ sộ. Người dân Nghi Xuân hồi đó làm thơ tả cảnh nhà ông như sau:
Trèo lên Hồng Lĩnh mà trông
Nhìn về đã thấy dinh ông rõ ràng
Lâu đài dãy dọc tòa ngang
Ông ngồi đọc sách nghiêm trang một mình
Thời gian này Nguyễn Du bước vào tuổi trưởng thành, việc ăn học đòi hỏi ngày một nhiều. Sau khi Nguyễn Nghiễm mất, gia cảnh không còn phong lưu như trước. Đời sống cùng việc học hành của Nguyễn Du không được như khi còn cha mẹ. Tuy vậy với địa vị và danh tiếng của gia tộc, Nguyễn Du vẫn là cậu Chiêu bảy được mọi người ngưỡng mộ. Quãng thời gian này, ngoài việc học hành, những khi rỗi rãi, lễ tết, Nguyễn Du thường cùng với bạn trai phường hát Tiên Điền vượt truông Hống đò Cài vào Trường Lưu hát ví và xướng họa thơ phú. Qua những lần đi hát, Nguyễn Du thực sự có cảm tình với o Uy, o Sạ. Đã có lần do mối thâm tình này mà gây ra bất hòa với trai Trường Lưu. Những năm sau này (sau 1786), khi từ Thái Bình về sống tại quê nhà, trở lại Trường Lưu gặp lại người xưa, gặp lại cảm xúc thời trai trẻ, Nguyễn Du đã viết bài Văn tế Trường Lưu Nhị Nữ nổi tiếng.
ất Trường Lưu ngoài hát phường vải có tiếng còn là chỗ thông gia với họ Nguyễn Tiên Điền. Nguyễn Huy Tự tác giả Truyện Hoa Tiên là con rể Nguyễn Khản (Lấy Nguyễn Thị Bành và Nguyễn Thị Thái). Nguyễn Thiện cháu Nguyễn Du là người nhuận sắc cuốn Truyện Hoa Tiên. Vì thế, Trường Lưu là nơi đi lại rất đỗi thân tình của Nguyễn Du. Năm Quý Mão (1783), 19 tuổi, Nguyễn Du ra Sơn Nam ( Nam Định) dự kỳ thi Hương và đậu Tam Trường (Tú tài). Cùng năm này, anh là Nguyễn Nễ (con bà Trần Thị Tần) em là Nguyễn Nhưng (con bà Hồ Thị Ngạn), cháu là Nguyễn Thiện (con Nguyễn Điều) thi đậu Tứ Trường (Cử nhân) ở trường Phụng Thiên.
Sau sự kiện Kiêu binh nổi loạn (1872), dinh thự Nguyễn Khản tại phường Bích Câu bị đốt cháy. Hoàn cảnh khó khăn, Nguyễn Khản đành xin cho Nguyễn Du làm chức Chánh Phủ Hiệu tỉnh Thái Nguyên vào năm 1786. Cũng trong năm này, Nguyễn Du cưới bà Đoàn Thị Huệ con gái Đoàn Nguyễn Thục, đỗ Tiến sĩ năm Nhâm Thân (1752) đang giữ chức Ngự Sử tại triều, người xã An Hải, huyện Quỳnh Côi, Trấn Sơn Nam (nay là tỉnh Thái Bình).
Năm Đinh Mùi (1787), Tây Sơn tiến quân ra Bắc lấy Bắc Hà. Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, Nguyễn Du chạy theo vua xong không kịp, phải chạy về trốn ở quê vợ tại Thái Bình (ở nhờ nhà anh vợ Đoàn Nguyễn Tuấn). Ông tập hợp hào mục để tính chuyện phục quốc nhưng chí không thành.
Mười năm lưu lạc ăn nhờ ở đậu quê vợ là những năm tháng cô đơn cùng cực của Nguyễn Du, đói không cơm ăn, rét không có áo mặc. Ông gọi quãng thời gian này là “Mười năm gió bụi” (Thập tải phong trần). Thường ngày ông làm thơ than thở cho cảnh ngộ của mình, chưa làm nên danh vọng gì đã rơi vào cảnh cùng khổ.
Điều này khiến ông suy nghĩ nhiều về cuộc đời và thảm cảnh mà gia đình ông phải gánh chịu. Cho nên mới 30 tuổi mà tóc đã bạc trắng, ông đã giải bày nỗi niềm của mình trong bài U cư:
…Mười năm trọn quê người nấn ná
Nương quê người tóc đã điểm sương
Những năm này, gia cảnh nhà vợ chẳng có gì khá giả. Đoàn Nguyễn Thục đã mất, con trai lớn cũng mất, Nguyễn Du đành cõng người con trai còn lại là Nguyễn Tứ về quê cha đất tổ ở Tiên Điền. Trở lại quê, nhà cửa tan hoang, anh em lưu tán khắp nơi, ông đã phải thốt lên: “Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán” (trở về Hồng Lĩnh gia đình không còn anh em lưu lạc khắp nơi).
Tuy vậy, ở Tiên Điền, lúc này bà con thân thuộc, con cháu thì nhiều. Nguyễn Du được bà con gia tộc chia cho mảnh đất ở thôn Thuận Mỹ làm nhà ở. Do được sinh ra và sống trong hoàn cảnh nhung lụa của một gia đình quý tộc nên về quê Nguyễn Du chẳng biết làm gì ngoài đống sách vở thánh hiền. Đêm nằm nghe tiếng gió Bắc thổi qua liếp cửa, tiếng chuột chạy trên đống sách khiến ông càng thêm buồn. Để khuây khỏa Nguyễn Du thường cùng trai làng Tiên Điền lên núi Hồng Lĩnh săn hươu, nai, chồn, xạ hương…và xuống sống Lam bắt cá. Ông tự đặt cho mình biệt hiệu “ Hồng Sơn liệp hộ” (Phường săn núi hồng) và “ Nam Hải điếu đồ” (Nhà chài bể Nam).
Sống tại quê nhà nhưng lòng Nguyễn Du luôn nghĩ về những năm tháng vàng son của gia tộc mình, nghĩ về nhà Lê. Ông tỏ ý trong các câu thơ:
Hán mất nhất thời vô nghĩa sĩ
Chu sơ tam kỉ hữu ngoan dân
(Buổi nhà Hán sắp mất không còn có người nghĩa sĩ
Lúc nhà Chu mới dậy vẫn còn dân ngoan cố)
Hay: Đàn đắc Kỳ Sơn thánh nhân xuất
Bá Di truy tử bất thần Chu
(Dẫu có bậc thánh nhân ta đời ở đất Kỳ Sơn
Nhưng ông Bá Di tuy đến chết cũng chẳng chịu làm quan cho nhà Chu)
Mùa đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du toan trốn vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh. Việc bại lộ, tướng Tây Sơn là quận công Nguyễn Văn Thận bắt giam. May nhờ Nguyễn Văn Thận là bạn thân của anh ruột cùng mẹ là Nguyễn Nễ (hơn nữa cũng tiếc Nguyễn Du là người có tài) nên không nỡ giết, chỉ giam vài tháng rồi cho về. Trong bài My trung mạn hứng ông có ghi lại sự việc này:
Bốn bề giói bụi tình nhà việc nước mà rơi lệ
Mười tuần lao tù nỗi lòng thắc thỏm cái sống chết
Tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802), Gia Long ra Bắc Hà có xuống chiếu cho các quan chức cũ của nhà Lê phải ra yết kiến. Nhân dịp đó, Nguyễn Du được vua truyền lệnh theo xa giá ra Bắc Thành và được dùng làm quan. Tháng 8 năm ấy được bổ làm tri huyện Phù Dung (thuộc Khoái Châu, Sơn Nam). Tháng 11 bổ làm tri phủ Thường Tín.
Mùa đông năm Quý Hợi (1803) sứ nhà Thanh phong sắc cho vua Gia Long. Nguyễn Du được cử cùng Tri phủ Thượng Hồng là Lý Trần Chuyên; tri phủ Thiên Trường là Ngô Nguyễn Viên và tri phủ Tiên Hưng là Trần Lân đi Trấn Nam Quan (Hữu Nghị quan ngày nay) nghênh tiếp sứ thần.
Mùa thu năm Giáp Tý (1804) Nguyễn Du lấy cớ bị bệnh xin từ chức về quê. Con đường làm quan với nhà Nguyễn đang hanh thông, nhưng ông vẫn thấy không mặn mà với triều đại này.
Trong bài thơ Hỷ Thúc phụ Thường Tín giải quan quy Nguyễn Hành có ý khen chú mình là người có dũng khí:
Thanh bình hà sự cố từ quan.
Dũng thoái như kim ý sở an.
Liệt tước dĩ tàng thiên hạ đắc.
Lệnh danh ưng vị ngã gia hoàn.
Nghĩa là:
Đang buổi thanh bình cớ sao chú lại cáo quan mà về
Chú mạnh mẽ rút lui lúc này là do ý muốn
Chú đã có một chức tước trong thiên hạ.
Thì chú cần phải giữ trọn danh tiết cho nhà ta.
Về quê chưa được bao lâu thì vua Gia Long có chỉ gọi ông vào Kinh Đô. Mùa xuân năm Ất Sửu (1805) được thăng Đông Các đại học sĩ, tước Du Đức hầu. Đây là một ân sủng lớn mà triều đình giành cho Nguyễn Du. Bởi Nguyễn Du chỉ đỗ Tam Trường (Tú tài) mà thời đó phải đỗ Hương cống (Cử nhân) thì mới được bổ làm quan. Sở dĩ triều đình nhà Nguyễn phong đặc cách cho Nguyễn Du như vậy vì: trước hết Nguyễn Du là một người có tài, hơn nữa ông lại xuất thân trong một gia đình khoa bảng lỗi lạc, một thời gian dài là dường cột của triều đình nhà Lê. Trọng dụng những người như Nguyễn Du có thể tranh thủ được sĩ phu Bắc Hà.
Tuy ra làm quan to với nhà Nguyễn, nhưng Nguyễn Du chẳng lấy làm vui mà lại thêm buồn. Buồn vì thời thế đã thay đổi, lại buồn cho thân phận mình. “Nghĩ mình phận chẳng ra gì”. Những đêm mưa rả rích ở xứ Huế, một mình nhìn về phía Bắc Đào Ngang lòng càng thêm đau xót. Nhà nghèo lại đông con, phải chịu cảnh đói rách:
Thập khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc
(Mười miệng đói đang kêu ở Đèo Ngang)
Tháng 9 năm Đinh Mão (1807), được bổ chức giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương. Xong việc, ông xin nghỉ về quê, được vua chấp thuận. Đến mùa Hạ năm Kỷ Tị (1809) vua lại có chỉ bổ ông giữ chức Cai Bạ tỉnh Quảng Bình.
Ông lại buồn thêm cho cảnh cá chậu chim lồng của mình. Lòng luôn hướng núi Hồng, nhớ những buổi đi săn nai, săn hươu, càng muốn được sống cảnh thanh nhàn nơi rừng núi. Vì thế, trong mười chín năm làm quan cho triều Nguyễn, ông sống âm thầm, lặng lẽ, không tấu trình điều gì, chỉ có vâng dạ. Đến nỗi vua Gia Long đã trách cứ Nguyễn Du: “Nhà nước dùng người, cứ ai hiền tài thì dùng không phân biệt gì Nam với Bắc cả. Nhà người đã làm quan đến chức á Khanh, biết việc gì phải nói để tỏ cái chức trách của mình, có lễ đâu cứ rụt rè sợ hãi, chỉ vâng vâng, dạ dạ hay sao?” (Đại Nam chính biên liệt truyện)
Những năm làm Cai Bạ tỉnh Quảng Bình, phàm những việc trong hạt như: lính tráng, dân sự, kiện thưa, tiền nong, lương thực và các hạng thuế, ông đều bàn bạc thương thuyết với các quan lưu thư ký mục để thi hành. Nguyễn Du giữ chức Cai Bạ 4 năm, chính sự giản dị không cần tiếng tăm nên được sỹ phu và nhân dân yêu mến. Năm 1811, nghe tin trấn Nghệ An bị hạn hán mất mùa, dân đói kém, ông viết thư gửi Hiệp Trấn Nghệ An Ngô Nhân Tĩnh xin miễn thuế cho dân Nghệ An năm đó và làm thơ cảm tạ:
…Xa nhìn Hồng Lĩnh ngôi sao đức
Nâng chén mừng quê khách dặm ngàn
Cùng năm đó, xảy ra vụ án Đặng Trần Thương, Nguyễn Gia Cát và Vũ Quý Đình làm 500 đạo sắc giả bán lấy tiền, càng làm cho Nguyễn Du thêm chán cảnh quan trường, nơi đầy rẫy những kẻ xu thời trục lợi, chỉ thích vơ vét tiền bạc. Đến tháng 9 năm Nhâm Thân (1812) ông xin tạm nghỉ hai tháng về quê xây mộ cho anh là Nguyễn Nễ.
Tháng hai năm Quý Dậu (1813) có chỉ triệu ông về Kinh thăng hàm Cần Chánh Đại học sĩ, rồi cử đi sứ Trung Quốc với tư cách là Tuế Cống Chánh sứ. Hai phó sứ giúp việc là Thiêm Sự Bộ Lại Trần Văn Đại và Nguyễn Văn Phong.
Trên đường đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du lại có dịp trở lại Thăng Long. Bạn bè ở Thăng Long mở tiệc đưa tiễn ở dinh Tuyên phủ, có gọi mấy chục nữ nhạc đến giúp vui. Trong đám nữ nhạc ông nhận ra một người mà 20 năm trước, khi ông từ Thái Bình lên thăm anh là Nguyễn Nễ đã hát cho quân Tây Sơn nghe. Bây giờ dung nhan tiều tụy, ông chạnh lòng nghĩ đến việc thế sự đổi thay, buồn bã thốt lên: “Than ôi! Sao người ấy đến nỗi thế? Tôi bồi hồi không yên, ngẩng lên cúi xuống, ngậm ngùi cho cảnh xưa nay”. Lòng cảm thương vô hạn, ông đã gửi vào bài thơ Long thành cầm giả ca.
Ông còn đau lòng hơn khi đi qua dinh thự nhà mình tại phường Bích Câu. Nhà cũ không còn, Cung vua, phủ chúa đã thành đường cái quan. Những cô gái quen đã đi lấy chồng, những bạn trai chơi thân ngày trước thì nên ông, nên lão. Chứng kiến cảnh cũ, ông thương tiếc, đau xót cho sự biến đổi của cuộc đời.
Ngày 6 tháng 2 năm 1813, đoàn sứ bộ qua ải Nam Quan, đến ngày 4 tháng 10 thì đến Bắc Kinh. Trong thời gian đi sứ, ngoài sứ mệnh bang giao, mỗi khi đi qua đền chùa, các danh thắng nổi tiếng của Trung Quốc, Nguyễn Du thường ghé thăm và làm thơ. Ông ca ngợi Hạng Vũ, Văn Thiên Trường, Tỷ Can… qua sông Mịch La nơi Khuất Nguyên tự tử, Nguyễn Du làm bài thơ Phản chiêu hồn khuyên Khuất Nguyên đừng trở về dương gian xấu xa, đầy tội ác. Qua tượng vợ chồng Tần Cối, ông chê trách Tần Cối nghe vợ giết trung thần làm Hán gian cho ngoại bang. Đến thăm đền thờ Tiểu Thanh ở Hàng Châu, tỉnh Triết Giang, người con gái tài sắc bạc mệnh, Nguyễn Du làm thơ khóc Tiểu Thanh, ngậm ngùi nghĩ đến thân phận mình:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như”
(Không biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ có ai khóc Tố Như không)
Tháng 4 năm Giáp Tuất (1814) Nguyễn Du trở về nước và có tập thơ Bắc hành tạp lục. Mùa hạ năm Ất Hợi (1815) Nguyễn Du được phong chức Hữu Tam Tri Bộ Lễ, tước Du Đức hầu (do đó người xưa thường gọi ông là Quan Tham Thúy Kiều). Mùa thu năm Kỷ Mão (1819) Nguyễn Du được cử làm Đề Điệu trường thi Quảng Nam, ông dâng biểu xin nghỉ được nhà vua chuẩn y. Tháng 8 năm Canh Thìn (1820) vua Gia Long mất, Minh Mạng lên ngôi, có lệnh sai Nguyễn Du đi làm Chánh sứ sang Trung Quốc cầu phong, nhưng ông chưa kịp đo thì mất tại Kinh thành Huế vào ngà 10 tháng 8 niên hiệu Minh Mạng năm đầu (dương lịch 16/9/1820) hưởng thọ 55 tuổi. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép: “Khi bệnh nặng không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân, nói đã lạnh rồi, ông bảo tốt, nói xong rồi mất không trăn trối lại điều gì về sau”. Nguyễn Du chết do dịch tả, trận dịch này bắt đầu từ Xiêm La, Chân Lạp rồi lây sang nước ta. Sử nhà Nguyễn chép: “Vào khoảng tháng 7, tháng 8, bệnh dịch phát sinh từ các tỉnh Hà Tiên, Định Tường rồi lây lan ra khắp nước đến tận Bắc Thành, người chết không biết bao nhiêu mà kể. Thành thị thôn quê đều náo động”
Nguyễn Hành bấy giờ đang ở Bắc Thành được tin chú mất, làm thơ Văn Thúc phụ Lễ Tham Tri phó âm cảm tác có câu thơ như sau:
Ngô môn hậu phúc công xảo hoàn
Dịch lệ hà năng tốc công tử
(Phú dày nhà ta chú đã giữ trọn vẹn
(Bệnh dịch sao có thể làm chú chết nhanh như thế)
Sự nghiệp văn chương của đã để lại cho hậu thế gồm:
- Về chữ Hán: Thanh Hiên Thi Tập; Nam Trung Tạp Ngâm; Bắc Hành Tạp Lục; Lê Quý kỉ sự.
- Về Quốc Ngữ (chữ Nôm): Văn tế Thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn); Văn Tế Trường Lưu nhị nữ. Và vĩ đại nhất là tập Đoạn trường Tân Thanh mà nhân dân ta thường gọi là Truyện Kiều
2. Tóm tắt tác phẩm Truyện Kiều trong khoảng 500 từ. Hãy trình bày gắn gọn những giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của kiệt tác này?
Dưới thời Gia Tĩnh triều Minh, ông bà Vương Viên ngoại ở Bắc Kinh sinh được 3 người con, hai gái, một trai:
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ nổi dòng nho gia.
Đầu lòng hai ả tổ nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Hai chị em Kiều có nhan sắc "mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười", và đã đến "tuần cập kê”.
Mùa xuân năm ấy, 3 chị em đi thanh minh. Lúc ra về khi bóng chiều đã ngả, họ gặp chàng văn nhân Kim Trọng “vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa". Sau cuộc kì ngộ ấy, Kiều và Kim Trọng yêu nhau, hai người thề nguyền "Trăm năm tạc một chữ "đồng" đến xương". Kim Trọng nhận được thư nhà, chàng phải vội về Liêu Dương "hộ tang chú…”
Sau đó, gia đình Kiều gặp tai biến, bị thằng bán tơ vu oan. Cha và em Kiều bị bắt, bị tra tấn dã man. Bọn sai nha, lũ đầu trâu mặt ngựa ập đến đập phá nhà cửa tan hoang, cướp bóc tài sản “ sạch sành sanh vét cho đầy túi tham". Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh với giá "vàng ngoài bốn trăm", để đút lót cho bọn quan lại, cứu cha và em. Nàng đã trao duyên cho Thúy Vân. Mã Giám Sinh đưa nàng về Lâm Tri. Kiều biết mình bị đẩy vào lầu xanh bèn rút dao tự vẫn nhưng không chết. Nàng được ma Đạm Tiên báo mộng là phải đến sông Tiền Đường sau này mới hết kiếp đoạn trường. Mụ Tú Bà dỗ dành Kiều ra ở lầu Ngưng Bích; mụ thuê Sở Khanh đánh lừa Kiều, đưa nàng đi trốn. Kiều bị Tú Bà giăng bẫy, mắc lừa Sở Khanh. Thúy Kiều bị Tú Bà đánh đập, ép nàng phải sống cuộc đời ô nhục. Tại lầu xanh, Kiều gặp Thúc Sinh, một khách làng chơi giàu có. Thúc Sinh chuộc Kiều ra lầu xanh và lấy Kiều làm vợ lẽ. Hoạn Thư, vợ cả Thúc Sinh lập mưu bắt cóc Thúy Kiều đưa về Vô Tích để đánh ghen.
Kiều bỏ trốn, nương tựa cửa chùa Giác Duyên… Kiều lại rơi vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh, bị đẩy vào lầu xanh lần thứ hai. Từ Hải, khách biên đình tìm đến gặp Kiều. Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cưới nàng làm vợ "Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cựỡi rồng". Một năm sau, Từ Hải đã có 10 vạn tinh binh, rạch đôi sơn hà, lập nên một triều đình "Năm năm hùng cứ một phương hải tần". Kiều báo ân báo oán.
Hồ Tôn Hiến "tổng đốc trọng thần" xảo quyệt lập kế "chiêu an”. Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, bị giết chết. Hắn bắt Kiều hầu rượu đánh đàn trong bữa tiệc quan. Hắn ép gả Kiều cho viên thổ quan. Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử. Giác Duyên đã cứu sống Kiều và đưa nàng nương nhờ của Phật.
Sau nửa năm về Liêu Dương, Kim Trọng trở lại Bắc Kinh, tìm đến vườn Thúy. Kim Trọng kết duyên với Thúy Vân. Kim Trọng và Vương Quan thi đỗ, được bổ đi làm quan. Cả gia đình tìm đến sông Tiền Đường lập đàn giải oan cho Kiều. Bất ngờ vãi Giác Duyên đi qua và cho biết Kiều còn sống, đang tu ở chùa.
Kiều gặp lại cha mẹ, hai em và chàng Kim sau 15 năm trời lưu lạc. Trong bữa tiệc đoàn viên, cả nhà ép Kiều phải lấy Kim Trọng, nhưng rồi hai người đã đem tình vợ chồng đổi thành tình bè bạn: Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.
Trong văn học trung đại Việt Nam, Truyện Kiều là tác phẩm có giá trị hiện thực, thể hiện một tư tưởng nhân đạo sâu sắc, giàu tính chiến đấu.
+ Truyện Kiều là bài ca về tình yêu tự do và ước mơ công lí
+ Truyện Kiều là tiếng khóc đứt ruột cho số phận con người.
+ Tác phẩm còn là bản cáo trạng đanh thép đối với các thế lực đen tối chà đạp lên quyền lợi chính đáng của con người.
+ Truyện Kiều là tiếng nói “hiểu đời”, hiểu người.
Qua Truyện Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện thái độ quyết liệt của ông đối với hiện thực và thời đại đồng thời cho thấy được nét cao đẹp trong tâm hồn của một nhà thơ nhân đạo. Truyện Kiều là kết tinh của tài năng bậc thầy và truyền thống văn học dân tộc, là đỉnh caochói lọi của thể loại truyện Nôm.
+ Nghệ thuật tiêu biểu trong Truyện Kiều là xây dựng nhân vật sống động, có tính điển hình cao.
+ Truyện Kiều là mẫu mực của nghệ thuật tự sự và trữ tình bằng thơ lục bát.
+ Tiếng Việt trong Truyện Kiều là một ngôn ngữ trong sáng, trau chuốt, giàu sức biểu cảm, sáng tạo.
Qua Truyện Kiều, Nguyễn Du đã làm cho tiếng Việt văn học đạt đến trình độ cổ điển, tạothành giá trị văn chương bất hủ muôn đời.
3. Ngoài kiệt tác Truyện Kiều, hãy nêu tên và nội dung một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du mà bạn biết?
- Tác phẩm bằng chữ Hán:
Thanh Hiên thi tập còn gọi là Thanh Hiền tiền hậu tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài thơ trong giai đoạn 1786-1804. Tập thơ là các bài viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.
Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, giai đoạn 1805-1812, ông được thăng hàm Đông các đại học sĩ, làm quan ở Kinh Đô 5 năm và làm cai bạ ở Quảng Bình 3 năm
Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, giai đoạn 1813-1814, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.
- Tác phẩm bằng chữ Nôm:
Những tác phẩm bằng chữ Nôm của Nguyễn Du gồm có:
+ Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), còn có tên gọi khác là Văn chiêu hồn, Văn tế chiêu hồn. Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải.
+ Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.
4. Hãy cho biết sức lan tỏa của Truyện Kiều trong đời sống xã hội từ trước đến nay.
Trong suốt hai thế kỷ qua, Truyện Kiều và Nguyễn Du luôn là nguồn cảm hứng của nhiều thế hệ. Thật hiếm có tác giả và tác phẩm nào ngấm vào máu thịt của người Việt Nam mà có sức sống lâu bền đến vậy. Truyện Kiều và Nguyễn Du đi vào thơ ca quen thuộc như bờ ao, lũy tre, ruộng vườn, trăng sao, hoa lá, bầu trời Việt Nam... và trở thành bao điều trăn trở của các nhà thơ. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã trở thành một bộ phận không thể tách rời trong đời sống tâm hồn của con người Việt Nam. Truyện được xem là một tài sản về mặt tinh thần của tất cả mọi người. Những người dân bình thường giản dị tiếp nhận Truyện Kiều bằng cách đọc hoặc nghe người khác kể lại. Sự thích thú của họ đối với Truyện thể hiện ở việc ai cũng thuộc một vài câu Kiều trong số 3254 câu thơ. Họ đã không giữ những câu thơ đó cho riêng mình mà kể lại thiên truyện cho những người khác cùng cảm nhận.
Truyện Kiều còn đi vào đời sống con người dưới các hình thức sáng tác dân gian như: Nhại Kiều, đố Kiều, tập Kiều, lẩy Kiều..v.v... Truyện Kiều còn trở thành một yếu tố tâm linh dười hình thức "bói Kiều" vào các ngày lễ tết, rằm, lúc gia đình có những việc đại sự, quan trọng. Tầng lớp tri thức lại tiếp nhận Truyên Kiều một cách bác học hơn như phê bình, đánh giá theo tư tưởng đạo đức nho giáo, đi sâu phân tích nội tâm của từng nhân vật, tìm hiểu sự tác động của Truyện Kiều đối với đời sống con người...
Bên cạnh đó, Truyện Kiều là một nguồn cảm hứng khơi mào cho hành loạt các tác phẩm thuộc nhiều thể loại văn học nghệ thuật khác nhau như: Kịch, tuồng, thơ ca, phim ảnh, hội họa, âm nhạc, cải lương... đặc biệt là lĩnh vực thơ ca. Mỗi nhà thơ đi tìm cảm hứng cho riêng mình ngay trong thiên truyện. Cảm hứng xuất phát từ số phận cho đến tình duyên, từ những nỗi đau đến nỗi cô đơn ngự trị trong nhân vật Thúy Kiều. Họ thay nàng nói những lời sâu kín nhất. Nhà thơ còn viết về Nguyễn Du tác giả của Truyện Kiều. Những tình cảm của họ đối với Nguyễn Du chan chứa tình yêu, tình thương, đồng cảm và hơn hết đó là lòng thành kính của mỗi người đối với đại thi hào. Vậy những bài thơ viết về Truyện Kiều và Nguyễn Du xuất phát từ những nguồn cảm hứng nào?
Trước hết, phải nói đến cảm hứng của người đời sau xuất phát từ sự đồng cảm với nhân vật Thúy Kiều. Truyện Kiều được xem là một đề tài hấp dẫn được nhiều người đi sâu tìm hiểu và bày tỏ những cảm xúc trong các đề tài, luận văn, thơ ca.Thúy Kiều là nhân vật chính. Nàng đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của mọi người trong đó có cả những nhà thơ, nhà văn đương thời. Họ hiểu Kiều như chính con người mình, thương cho một kiếp hồng nhan nhưng bạc phận. Mỗi nhà thơ có cách viết riêng nhưng tất cả đều bày tỏ sự đồng cảm, xót thương và chia sẻ với những khổ đau mà Kiều từng trải. Đoạn trường mười lăm năm phiêu dạt của nàng Kiều là những tủi nhục, cô đơn và đau khổ. Kẻ gây ra tội ác đó cho nàng Kiều không ai khác đó là một xã hội phong kiến suy tàn, mục nát, thối tha, bọn buôn thịt bán người vô nhân tính. Cảm nhận được điều đó, mỗi nhà thơ đều dành những tình cảm chân thành nhất cho Thúy Kiều. Họ bày tỏ sự đồng cảm, xót thương đối với nàng thông qua những vần thơ chân thành mà sâu sắc.
Kiều trở nên gần gũi với công chúng, có sức hút mãnh liệt, trở thành nguồn cảm hứng trong sáng tác của các nhà thơ và những người dân bình thường trong xã hội. Mỗi vần thơ của họ đều là những dòng tâm sự tận đáy lòng, những khát khao thể hiện tình yêu đến cháy bỏng. Trong thế giới thi ca, các nhà thơ đã không ngần ngại nói ra những cảm xúc của mình mà không hề dấu diếm. Những cảm xúc đó có thể được nói ra một cách trực tiếp thắng thắn, cũng có thể khéo léo, tinh tế, nhẹ nhàng tùy theo vấn đề và tính cách mỗi cá nhân. Các sáng tác hướng tới Thúy Kiều nhiều khi có chung một cảm xúc nhưng mỗi người lại có những cách thể hiện riêng của mình.
Đêm nghe gà gáy bên sông
Lời như sương mỏng bồng bềnh tương tư
Dáng Kiều đâu đó hình như
Lẫn trong tiếng pháo gầm gừ niềm tin.
( Đọc lại Truyện Kiều - Đoàn Tuấn - Lê Minh Quốc)
Nàng Kiều đi vào trong tâm hồn, cuộc sống của người dân một cách tự nhiên. Kiều đã trở về trong những đêm khuya văng vẳng tiếng gà, lẫn trong những giọt sương đêm mỏng manh, hòa mình vào tiếng pháo cất dấu những niềm tin thắng lợi. Kiều còn khơi gợi trong lòng tác giả những cảm xúc khó tả đó là lời bộc bạch của tác giả Đoàn Tuấn - Lê Minh Quốc. Đọc từng dòng Kiều trong đêm khuya cùng với một tâm hồn đa cảm của mình, tác giả thấy đau cho một kiếp người hồng nhan nhưng bạc phận, thấy tiếc cho một tình yêu trong sáng, trinh nguyên. Chính tác giả đã cảm nhận được nỗi đau giằng xé của nàng:
Dẫn theo Kiều tặng cho đời
Tiết trinh tơi tả, rã rời tình yêu
Đi trong bóng ngả xế chiều
Lạnh đôi giọt lệ em Kiều là đây
Đọc và hiểu đoạn trường mà nàng đã trải qua nhưng với tác giả Kiều vẫn là một cô gái vẹn nguyên, trinh trắng, nhẫn nhịn, cam chịu nỗi đau của mình, "Mây tần, mưa sở bao đêm/ chữ trinh nguyên vẹn dù em lỡ làng/ nghiến răng không một tiếng than/ bốn bề máu chảy bàn hoàn bàn chân". Đoàn Tuấn - Lê Minh Quốc càng thêm yêu Kiều và dành cho Kiều một tình cảm chân thành nhất, tình cảm đó đã được thể hiện trong từng câu thơ gần cuối bài "vẫn trong như ngọc trắng ngần/ tình em thắp sáng trăng rằm Angkor".
Nhà thơ Tố Hữu chỉ thốt lên một câu "Tố Như ơi lệ chảy quanh thân Kiều" cũng làm cho chúng ta thấy một tấm lòng thương người cao cả, sâu sắc của ông. Đọc từng dòng thơ lục bát hay, sâu sắc và đi theo sát dấu chân đại thi hào nhưng Tố Hữu chỉ cảm thấy một sự thật tàn khốc "máu chảy ở trên ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy" như hòa trong từng chữ, từng câu thơ xé ruột. Bức tranh về cuộc đời nàng hiện diện trước mắt ông, lấy đi của tác giả một nỗi đau xé lòng.
Sau bảy nổi ba chìm chín long đong
Kiều tủi thân xót phận nhảy xuống dòng
Giác Duyên nghe động tâm bồ tát
Cởi áo cà sa nhảy xuống bồng.
Nước Tiền Đường có rửa sạch Kiều không?
Câu kinh nệ có xoa Kiều dịu nỗi?
(Khi đọc Truyện Kiều - Hà Nguyên Dũng)
Hà Nguyên Dũng sau khi lần theo bóng dáng Thúy Kiều trong mười lăm năm lưu lạc, ông đã có một cái nhìn tổng thể về cuộc đời nàng: "sau bảy nổi ba chìm chín long đong". Ông mang trong mình một nỗi lòng trăn trở, liệu nước Tiền Đường có cuốn trôi những mảnh màu đen tối trong cuộc đời nàng? Liệu những câu kinh kệ có ru nhẹ nỗi đau của nàng? Liệu nàng có thanh thản, tĩnh lặng với sông Tiền Đường, câu kinh kệ hay không? Sau đó ông nhẹ nhõm khi biết "Kiều chẳng được ai thương, nghĩ tới/ nếu cuối cùng nàng không gặp Nguyễn Du". Phải chăng những trăn trở này của tác giả xuất phát từ một sự đồng cảm của ông đối với số phận Thúy kiều.
Cũng là đồng cảm, xót thương nhưng Hoài Yên lại có một cách thể hiện khác đối với Kiều, ông thể hiện tình cảm nội tâm đau thương, nuối tiếc của mình ẩn sau những câu thơ như biện bạch, như đang hỏi nhưng ngẫm ra lại là một lời khiến trách sâu xa. Trần Huy Liệu cũng chỉ là một người bình thường trong số đó. Ông giãi bày tâm sự của mình qua bài khóc Kiều với 8 câu ngắn gọn. Với ông, kiếp nạn Thúy Kiều sao tránh khỏi long đong lận đận với đời. Ông cảm thông cho số phận một đời con gái, sống trôi dạt vào tay biết bao người: "Bạc phận hồng nhan chán vạn người/ đoạn trường số ấy có tên ai/ phòng loan cung cấm đà bao thuở/ mày trắng lầu xanh mấy độ rồi/.... chỉ vì chưa gặp người tri kỷ/ mà luống long đong suốt cả đời".
Lê Thu Yến trong bài Duyên nợ với Kiều, bằng sự đồng cảm khi cũng là phận nữ tác giả vừa cảm thông vừa kính trọng yêu thương con người tài ba nhưng bạc phận ấy. Cảm nhận của cô trong mỗi trang Kiều vừa lướt qua là một một nỗi xót xa, cay đắng lẫn yêu thương: "Lần đầu tôi giờ trang Kiều/ thấy cay, thấy đắng, thấy nhiều xót xa/... Thúy Kiều tính hiểu ai bì/ mà đời ganh ghét, khinh khi phũ phàng/ phải chi tôi gặp được nàng/cảm thông một chút đôi hàng thơ rơi". Cô như đang sống trong Kiều cùng nàng gắng đỡ cuộc đời gian truân, vất vả. Và chúng ta càng thấy rõ trong những câu thơ trên là một cảm giác không yên lòng của cô về những con người mệnh bạc, về số phận đa đoan của những kiếp hồng nhan.
Những câu thơ của Thai Sắc:
Thúy Kiều ơi, chiều nay ta đưa nàng qua bến Cô Giang
Vẫy cánh buồm đơn khóc hờn ngoài bể thẳm
... Thúy Kiều ơi, nàng là mảnh gương long lanh dễ vỡ
Ta làm sao gìn giữ giữa lòng tay
.... Về cùng ta đi em chiều nay, chiều nay trên bến cũ
Đừng một cõi mong manh giữa dâu bể vô bờ
( Với Thúy Kiều - Thai Sắc )
Thai Sắc đã mang trong mình một tâm trạng khắc khoái khó nói nên lời. ông dùng tiếng gọi "Thúy Kiều ơi" sao nghe mà da diết. Ông gọi trong lòng hay gọi cho chính Kiều nghe cũng nào ai biết được. Nhưng ta nhận ra rằng, ông đã dùng tấm lòng, ngưỡng vọng của mình để nhìn Kiều với cái nhìn đầy trân trọng, cảm thông và ước mơ có thể chia sẻ cùng nàng những thăng trầm của cuộc sống khó khăn.
Với nhà thơ Tố Hữu, ông mượn đôi lời gửi tới cụ Nguyễn Du để thể hiện tình cảm với nàng Kiều phận mỏng. Trong bài Kính gửi cụ Nguyễn Du, ông đã bày tỏ nỗi lòng thương cảm của mình với số phận lênh đênh bất định như cánh hoa lục bình của người con gái tài sắc vẹn toàn: "Bâng khuâng nhớ cụ, thương thân nàng Kiều/ hỡi lòng tê tái thương yêu/ giữa dòng trong đục cánh bèo lênh đênh/... Trải qua gió dập sóng dồi/ tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha/ đau đớn thay thân phận đàn bà/ hỡi ôi, thân ấy biết là mấy thân..."
Nếu như Xuân Diệu với bài Xuân đầu, Mai Quốc Liên Bất chợt Tiền Đường, Nguyễn Tài Đại Đời Kiều qua bốn lần đánh đàn, Tạ Hữu Yên bài Với Kiều và rất nhiều các tác phẩm khác đều bày tỏ sự đồng cảm, xót thương cho một cô gái tuyệt sắc nhưng bất hạnh từ đường đời cho đến đường tình duyên, sống trôi nổi như cây tầm gửi giữa cuộc đời, Thì Tế Hanh với bài Bình luận về Kiều có một góc nhìn táo bạo và mới mẻ hơn khi cho rằng người anh hùng đứng vị trí đầu tiên xuyên suốt trong toàn tác phẩm đó là tài nữ Thúy Kiều: "Người anh hùng trong Truyện Kiều là Kiều/ một cô gái chịu đựng bao gian khổ". Ông cho là như vậy bởi nàng là phận gái liễu yếu đào tơ nhưng một mình dũng cảm vượt qua bao nhiêu khổ đau, bất công, vô lý của xã hội. Với ông, nàng giống như một đóa sen sống trong bùn mà vẫn tỏa hương, nàng vẫn trắng trong cho một chữ hiếu, chữ tình, vẫn vẹn nguyên một tâm hồn cao thượng. Mạch cảm hứng về Truyện Kiều không bao giờ cạn, bởi con người ai mà chẳng có trái tim, ai không đau cho một con người bất hạnh, không giận, không hờn khi chia rẽ hai người yêu nhau.
Từ sự đồng cảm của người sau, Truyện Kiều có tác động không nhỏ đối với người dân Việt Nam. Truyện Kiều tồn tại theo dòng chảy của thời gian, đi vào trong tâm hồn của mỗi con người, làm thổn thức biết bao nhiêu là thế hệ. Truyện không chỉ có trong thơ Chế Lan Viên, Tế Hanh, Nguyễn Khuyến... mà còn đi vào trong chiến trận, trong lao động và trong cả thế giới trẻ thơ. Với Chế Lan Viên, Truyện Kiều đi sâu vào trong cuộc sống con người. Với ông, truyện đã đến với cô gái yêu thơ trong những tháng ngày bom đạn điên cuồng. Ông gặp lại Kiều trên đất khách từ lớp học vọng ra. Ông nghe tiếng ngâm Kiều vang lên trên dòng sông thanh vắng.
... Em có yên tâm để đọc Truyện Kiều
Buổi trăng lửa chếch soi tiền tuyến?
... Gặp Nguyễn nơi đây trên đất Quảng Bình
Đất hỏa tuyến những chàng trai lớp bảy
Lại ngâm Kiều sau một cuộc giao tranh.
... Đêm thắng giặc Bảo Ninh, mẹ Suốt ngâm Kiều
Mẹ dám đâu quên cái thuở khổ nghèo
... Câu thơ Nguyễn cũng góp phần đánh Mỹ
Một mái chèo trong lửa đạn xông pha.
(Gửi Kiều cho em năm đánh Mỹ - Chế Lan Viên )
Nhà thơ Vĩnh Mai cũng viết về Truyện Kiều ở trong thời tranh đấu ác liệt. Trong bài Tiếng ngâm Kiều trên sông Nhật Lệ, truyện đi vào trong lòng mẹ Suốt, làm khơi dậy bao nhiêu cảm xúc của người mẹ anh hùng. Tác giả đang tự hỏi mẹ đã nghĩ gì khi nghe những câu Kiều vọng lại trong đêm? Có phải truyện đã khiến mẹ quên đi hiểm nguy, quên khó nhọc, vung tay chèo đi lên phía trước, băng qua lửa đạn đến tiền phương: "...Mẹ ngồi im lưng tựa mạn thuyền/ một giọng ngâm Kiều ấm áp vọng lên/...mẹ đã nghĩ gì giây phút ấy/ mà bỗng quên tất cả nhọc nhằn/ quên phút hiểm nghèo đạn réo bom gần/ tay chèo mẹ vung lên phía trước/...chân lý sáng ngời cầm chắc trong tay/ nghe ngâm Kiều mẹ có thấy đêm nay/ trăng Đồng Hới thêm xanh thêm mát/ nước Nhật Lệ rì rào trong tiếng hát/ và lòng già lấp lạnh những đêm trăng".
Trong thế giới học đường, Truyện Kiều được người thầy cảm nhận bằng tình yêu, bằng trái tim thổn thức đầy nhiệt huyết. Nhưng đứng trên bục giảng, người thầy mới thấy khó khăn khi giảng những điều xưa ấy cho đám học trò thơ ngây. Thầy luôn trăn trở làm sao để các em hiểu được mọi điều với một tâm hồn còn hồn nhiên vô lo, vô nghĩ. Nhưng người thầy cũng luôn tin chắc chắn một ngày không xa các em cũng sẽ hiểu hết được giá trị mỗi trang Kiều.
Nước mắt Nguyễn Du thẩm đẫm mỗi trang Kiều
Tôi thổn thức trước đèn soạn từng trang giáo án
Mà sáng nay ngập ngừng trên bục giảng
Sao tôi nói được tiếng tim mình
...Gương mặt ai cũng rạng rỡ tươi hồng
Xa xôi quá với nét Kiều ủ dột
Soi cho các em cảm thụ những trang Kiều
(Giảng Kiều ở Vũng Tàu - Hoàng Trung Thủy)
Với bài Cảm ơn cô giáo dạy văn, Trần Dzạ Lữ đã công nhận công lao to lớn của những người giáo viên trong việc giữ lửa hồng truyền lại cho thế hệ mai sau. Những người thầy người cô đó vẫn truyền tải đến học sinh hồn thơ vẹn nguyên của đại thi hào, làm cho Kiều qua năm tháng vẫn luôn tồn tại, dành lấy một trái tim nhân hậu của con người: "Cảm ơn đời còn có em/ bao nhiêu năm vẫn bên trường lớp xưa/... cái tâm ấy đến bây giờ/ vẫn nguyên vẹn bóng nguyễn Du hiện về".
Như một nơi giữ lửa, thầy cô sẽ là những người tiếp nhận số mệnh đưa hồn thơ của Nguyễn Du vào thế hệ mai sau, cho học sinh biết thêm về cuộc đời về số phận của những con người ngày xưa ấy.
Đối với cuộc sống của người dân, Truyện Kiều là chiếc gối của mẹ mỗi đêm thâu, Phan Cung Việt cho như vậy cũng là vì:
Truyện Kiều bên mẹ ngày đêm
Về già mẹ lại năng xem truyện Kiều
Cuốn thơ nằm, đến là yêu
Chông chênh như chiếc gối nghèo mẹ là đây
.... Chông chênh làm chiếc gối nghèo
Truyện Kiều bên mẹ chống chèo giấc mơ.
(Chiếc gối - Phan Cung Việt)
Truyện Kiều trở thành người bầu bạn tâm giao, là câu hát ru cho mẹ những đêm khó ngủ. Nàng về thăm mẹ những đêm khuya, nhận được của người một tình yêu sâu sắc. Mọi người yêu thích truyện kiều đến nôi ngay cả lúc nghỉ ngươi họ vẫn thích đọc kiều. Bởi vì họ cảm thấy đồng cảm, thương yêu cho số phận của người phụ nữ bị chà đạp phải chịu nhiều bất hạnh trong thơ.
Bài thơ Đọc Kiều của Nguyễn Khắc Kình kể lại tuổi thơ của ông gắn với những câu chuyện Kiều mẹ kể. Khi lớn lên từ cảm xúc ngày xưa ấy, ông tìm đến với Kiều mới hiểu thế nào kiếp khổ của cô gái hồng nhan: "Tuổi thơ, nghe mẹ kể Truyện Kiều/ thương cảm tiếng tỳ bà nức nở/ thương tình phận cô kiều dở dang/... lớn lên tôi đọc Truyện Kiều/ vẫn thơ ngọt chứa bao điều chua chát/...mẹ thường dạy con cháu về đạo lí/ mẹ chẳng quên nhắc số phận cô Kiều...".
Truyện Kiều là một kiệt tác của văn học Việt Nam, tự hào đứng cùng những tác phẩm bất hủ của thế giới. Tác phẩm được bạn đọc trong và ngoài nước yêu mến. Tác phẩm còn trở thành món ăn tinh thần gần gũi với đời sống của người dân Việt Nam. Đặc biệt hơn, khi Truyện Kiều còn đi vào thế giới tâm linh trở thành nơi để con người gửi gắm niềm tin về vận mệnh của mình. Truyện Kiều biến thành một hình thức dân gian mang đậm tính chất tâm linh. Truyện Kiều và Nguyễn Du là niềm tự hào của ngời dân Việt Nam./.
5. Cảm nhận của bạn về cuộc thi “Tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp Đại thi hào Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều”, cũng như việc kỷ niệm 250 năm Ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du.
Sưu tầm
0 nhận xét:
Đăng nhận xét